Dự án khoa học công nghệ chế tạo thiết bị cho dây chuyền sản xuất xi măng 2.
Dự án khoa học công nghệ chế tạo thiết bị cho dây chuyền sản xuất xi măng 2.500 tấn clanke/ngày. Một loại hình hoạt động khcn có tính thực tiễn và hiệu quả cao (30/03/2007)
Giá:
Call
Trong kho:
Hết hàng
Số lưt xem:
16835
Thông tin sản phẩm
Cùng loại
Bán chạy
Liên hệ
Khuyến mãi
Thanh toán
Bản đồ
Dự án khoa học và công nghệ: Nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị chủ yếu cho dây chuyền đồng bộ sản xuất xi măng lò quay công suất 2.500 tấn clanke/ngày, thay thế nhập ngoại, thực hiện tiến trình nội địa hóa (sau đây gọi tắt là Dự án) do Tổng công ty Lắp máy Việt Nam-LILAMA.
Bộ Xây dựng là đơn vị chủ trì, được Bộ KH&CN phê duyệt thuyết minh tổng quát tại Quyết định số 2861/QĐ-BKHCN Ngày 14 tháng 11 năm 2005. Mục tiêu về KHCN của Dự án nhằm nâng cao trình độ KH&CN cho đội ngũ tư vấn thiết kế, cán bộ KH&CN, từng bước làm chủ được công nghệ trong các lĩnh vực tư vấn thiết kế, thiết kế công nghệ, chế tạo thiết bị cho dây chuyền sản xuất xi măng lò quay công suất 2.500 tấn clanke/ngày, đạt tỉ lệ nội địa hóa 65-70% về khối lượng và 40% về giá trị, làm tiền đề cho việc nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị cho dây chuyền xi măng có công suất lớn hơn. Thời gian thực hiện: 3/2005-12/2008. Tổng kinh phí dự kiến: 214.916 triệu đồng, trong đó dự kiến kinh phí sự nghiệp KHCN để chi cho nghiên cứu thiết kế, chế tạo thử nghiệm các thiết bị là 34.150 triệu đồng. Kinh phí còn lại lấy từ nguồn thực hiện Đề án xây dựng nhà máy sản xuất xi măng của một số địa phương. Dự án gồm có 8 nhiệm vụ KHCN chính: nghiên cứu, thiết kế kỹ thuật phần công nghệ dây chuyền sản suất xi măng lò quay công suất 2.500T clanhke/ngày; nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các thiết bị chính trong công đoạn đập đá vôi và đồng nhất sơ bộ đá vôi; máy nghiền đứng; hệ thống lò quay; thiết bị lọc bụi công suất lớn; hệ thống đóng bao xi măng tự động; hệ thống tự động hóa và cuối cùng là thiết bị quạt gió công suất lớn. Sản phẩm khoa học của Dự án tương ứng với các nhiệm vụ trên là các số liệu, thiết kế công nghệ, thiết kế chế tạo, các thiết bị được chế tạo trong nước và đưa vào áp dụng tại các dự án đầu tư dây chuyền sản xuất xi măng.
Những thuận lợi trong quá trình triển khai Dự án:
Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KHCN) đã có những động thái tích cực đổi mới công tác quản lý khoa học và công nghệ bằng Quyết định Số 11/2005/QĐ-BKHCN ngày 25 tháng 8 năm 2005 của Bộ KHCN việc ban hành “Quy định tạm thời về việc xây dựng và quản lý các Dự án khoa học và công nghệ”. Quy định này đã mở đường cho Dự án trở thành hiện thực và đầy triển vọng.
Dự án KHCN là một loại hình hoạt động KHCN mới, các văn bản hướng dẫn còn chưa được đầy đủ hoặc thiếu sát thực, trong khi nhiều đơn vị là doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia nghiên cứu khoa học còn nhiều bỡ ngỡ, có nhiều tình huống nảy sinh… đòi hỏi các cơ quan chức năng phải rất tập trung và quan tâm, hỗ trợ. Bộ KHCN và Bộ Xây dựng đã có sự phối hợp nhịp nhàng để hình thành và triển khai Dự án, kịp thời lồng ghép với Chương trình sản phẩm cơ khí trọng điểm để thực hiện tiến trình nội địa hóa các dây chuyền thiết bị toàn bộ xi măng, làm tiền đề phát triển việc chế tạo thiết bị đồng bộ cho các ngành khác. Thứ trưởng Bộ Xây dựng Tống Văn Nga đã thực sự gắn bó với Dự án, nắm bắt được tình hình công nghệ sản xuất xi măng trong và ngoài nước, hiểu rõ khả năng của từng đơn vị để có phương án chỉ đạo quyết đoán, đúng lúc và điều phối đúng người, đúng việc; phát huy được vai trò, trách nhiệm của các đơn vị chức năng liên quan thuộc Bộ Xây dựng như Vụ Khoa học và Công nghệ, Vụ Vật liệu Xây dựng…
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam-LILAMA, Bộ Xây dựng là đơn vị chủ trì Dự án đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, sớm hoàn thành hồ sơ và các thủ tục đăng ký với Bộ KH&CN. Đây là dự án KHCN lần đầu tiên và cũng là dự án duy nhất được Bộ KH&CN phê duyệt năm 2005 và đã khẩn chương đi vào triển khai thực hiện. Với lợi thế là tổng thầu EPC, đảm nhận toàn bộ quá trình thực hiện dự án đầu tư, trong đó bao gồm cả việc lựa chọn mua sắm các thiết bị cho một số dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất xi măng trong nước, LILAMA có điều kiện và thẩm quyền để đưa các kết quả KHCN áp dụng vào các dự án đầu tư, đảm bảo tính khả thi cho Dự án KHCN. Bộ máy quản lý, điều hành Dự án của LILAMA có năng lực tốt và tính chuyên môn hóa cao, qua một thời gian ngắn thực hiện, các cán bộ được giao nhiệm vụ theo dõi dự án đã nhập cuộc nhanh chóng và công việc quản lý đã đi vào nề nếp theo đúng các quy định. Bên cạnh đó phải kể đến quá trình phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị thực hiện để xây dựng đề cương chi tiết, thuyết minh tổng quát của dự án, kịp thời trình các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
Dự án đã thu hút được sự tham gia của nhiều đơn vị mạnh trong và ngoài Bộ Xây dựng như: Công ty Tư vấn xây dựng công trình Vật liệu xây dựng (CCBM), Công ty lắp máy và xây dựng 69-3, Công ty cơ khí lắp máy, Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng; Cty TNHNN-1TV Cơ khí Hà Nội (HAMECO), Bộ Công Nghiệp; Viện nghiên cứu cơ khí (NARIME), Bộ Công Nghiệp... Dự án còn huy động được đông đảo các chuyên gia KHCN tham gia tư vấn, thẩm định trong quá trình thực hiện như: ông Nguyễn Văn Thụ-Hiệp hội các Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, PGS.TS. Vũ Liêm Chính-Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, PGS.TSKH. Nguyễn Phùng Khoang-Trường Đại học Bách khoa Hà Nội v.v.... Các đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ nghiên cứu đã thể hiện tính chuyên nghiệp cao, tuân thủ tốt các quy định, báo cáo tình hình thực hiện khá chi tiết, tỉ mỉ, phản ánh kịp thời thực trạng của công việc và trao đổi thẳng thắn để tháo gỡ các vấn đề nảy sinh.
Những vấn đề tồn tại cần tháo gỡ:
Phần cốt yếu nhất của Dự án là nghiên cứu, thiết kế công nghệ và thiết kế chế tạo các thiết bị, từ thiết kế đã có, việc chế tạo các thiết bị sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Để làm chủ được thiết kế, thường thì ta phải nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài với giá rất cao và sẽ là lãng phí vì địa chỉ áp dụng ở trong nước để khai thác thiết kế không nhiều. Để khắc phục, một số đơn vị đã sử dụng nhiều giải pháp như khéo đàm phán để kết hợp nhập một số thiết bị kèm theo điều kiện hướng dẫn, chuyển giao một phần thiết kế, vừa tự nghiên cứu thiết kế vừa đối chiếu với thiết kế của nước ngoài để kiểm chứng, dùng chuyên gia nước ngoài để tư vấn, thẩm định thiết kế v.v... Cho đến nay, hầu hết các nhiệm vụ đã cơ bản xong phần nghiên cứu, thiết kế.
Tiếp theo là chế tạo các thiết bị theo thiết kế của ta, vận hành thử các thiết bị chế tạo được để khảo nghiệm và hoàn thiện các thông số kỹ thuật, và cuối cùng là chính thức đưa các thiết bị chế tạo được vào dây chuyền để sản xuất. Tuy nhiên, phần chế tạo thiết bị lại gặp khó khăn về địa chỉ áp dụng. Đối tác nước ngoài chưa đồng ý việc đưa vào các dự án đầu tư một số thiết bị được thiết kế, chế tạo bởi phía Việt Nam với lý do các thiết bị này chưa đủ độ tin cậy để vận hành cùng cả dây chuyền do họ chịu trách nhiệm cung cấp thiết kế và cung ứng thiết bị và bảo hành. Bên cạnh đó, vấn đề bản quyền, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa… liên quan đến quá trình áp dụng vào thực tiễn sản xuất các sản phẩm khoa học công nghệ cũng được đặt ra và cần có sự thỏa thuận của đối tác nước ngoài.
Trong phiên họp kiểm tra định kỳ do Bộ Xây dựng tổ chức vào ngày 10 tháng 8 năm 2006 tại Công ty Lắp máy và Xây dựng 69-3 thuộc Tổng công ty LILAMA, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Tống Văn Nga đã đánh giá cao quá trình thực hiện nghiêm túc triển khai các nhiệm vụ thuộc Dự án mà đơn vị thực hiện và chỉ đạo tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc mà trước hết cần đẩy nhanh tiến độ cung cấp thiết kế của nước ngoài để tranh thủ thiết kế của họ, đối chiếu với thiết kế của ta, nhằm nắm vững và làm chủ thiết kế kỹ thuật, tiến tới chế tạo các thiết bị khi có điều kiện áp dụng. Để có thêm căn cứ tin cậy và khách quan cho việc chế tạo các thiết bị, Thứ trưởng đã giao cho Hiệp hội các Doanh nghiệp cơ khí tổ chức hội đồng KH&CN thẩm định kỹ thuật các thiết kế đã hoàn thành; giao cho Vụ Vật liệu xây dựng phối hợp với Hiệp hội các Doanh nghiệp cơ khí hỗ trợ việc kết nối giữa các đơn vị để tăng tính hiệu quả, tránh trùng lắp, lãng phí trong đầu tư nghiên cứu. Thứ trưởng cũng nghiêm khắc nhắc nhở các đơn vị làm tổng thầu, chủ thầu khi đàm phán với đối tác nước ngoài để cung cấp thiết kế và cung ứng thiết bị, dây chuyền sản xuất xi măng, cần khôn khéo và kiên quyết để tranh thủ cơ hội tăng được tỉ trọng thiết kế, chế tạo cơ khí trong nước, đưa được các sản phẩm KH&CN vào thực tiễn sản xuất.
Như vậy, tuy mới triển khai một thời gian không lâu, Dự án đã cho thấy những đặc điểm khá điển hình để rút kinh nghiệm cho các dự án KHCN nói chung; cũng là một dịp để các cơ quan chức năng, các nhà quản lý có cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan tới dự án KHCN và phát huy áp dụng cho các loại hình hoạt động KHCN khác thêm phần hiệu quả, đó là: